Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni là người khai sinh ra Đạo Phật. Ngài đã tu luyện thành Phật, giác ngộ chân lý và truyền bá chúng để cứu khổ chúng sinh. Ngày nay, Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người tôn kính, thờ tựu và không thể thiếu trong mỗi ngôi chùa. Vậy thực sự Phật Thích Ca Mâu Ni là ai mà có sức ảnh hướng lớn đến như vậy? Hãy cùng Vật Phẩm Phật Giáo tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
V. Vị trí đặt tượng Phật Thích Ca
Vị trí đặt tượng Phật có ý nghĩa vô cùng quan trọng
Tượng Phật Thích Ca cần được đặt ở vị trí phù hợp trong nhà để thể hiện sự tôn trọng đối với Phật giáo cũng như là phát huy công dụng cảm hóa an lạc. Đồng thời, bạn cũng có thể mời thầy phong thủy hoặc pháp sư về để tìm kiếm các vị trí đặt tượng tốt nhất.
Theo đó, bàn thờ Phật nên đặt ở vị trí giữa nhà, lưng áp sát vào tường, phía sau không có khoảng trống hay lỗ hổng. Đặc biệt, bạn nên tượng Đức Phật hướng nhìn về phía Đông (hướng mặt trời mọc) để tâm luôn được soi sáng, giác ngộ và tránh xa những cám dỗ.
Bàn thờ Phật nên đặt ở phía trên, cao hơn so với bàn thờ gia tiên và đặt chung với bát hương, lọ hoa, chén nước, dĩa đựng trái cây, chuông… Đặc biệt, nếu có điều kiện, bạn có thể đặt tượng Phật Thích Ca ở một phòng thờ riêng biệt.
Đặt tượng Phật ở các khu vực yên tĩnh, có đầy đủ ánh sáng cũng như tránh đặt gần khu vực phòng ngủ, nhà vệ sinh, phòng tắm, cầu thang hay lối đi lại để không phải phạm điều bất kính với Phật. Bên cạnh đó, bạn cũng cần thường xuyên lau chùi, thờ cúng để tỏ lòng thành và sự tôn trọng dành cho Đức Phật Thích Ca.
III. Ý nghĩa tượng Phật Thích Ca
Tượng Phật Thích Ca có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong Phật giáo
Tượng Phật Thích Ca có ý nghĩa vô cùng to lớn, ngài giúp con người thoát khỏi những lo lắng, buồn phiền trong cuộc sống và hình ảnh tượng Phật Thích Ca tọa trên đài sen thể hiện sự thanh tịnh, bình yên.
Đôi mắt của Đức Phật Thích Ca mở ba phần tư nhìn xuống, biểu thị cho ngài đang quan sát mọi việc ở nhân gian cũng như nội tâm của con người chúng sinh. Theo đó, khi nhìn vào tượng Phật sẽ giúp ta giác ngộ ra được những chân lý sáng suốt trong cuộc sống.
Tượng Phật Thích Ca được mọi người tôn kính, thờ phụng với mong muốn gia đình luôn gặp được nhiều may mắn, hạnh phúc và giải hóa, tránh khỏi những điều xấu. Không chỉ vậy, thờ tụng Phật giáo còn giúp chúng ta và gia đình luôn suy nghĩ hướng thiện, làm việc tốt từ đó giúp ích cho cuộc sống.
VII. Mua tượng Phật Thích Ca uy tín tại Vật Phẩm Phật Giáo
Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều cơ sở cung cấp, kinh doanh các loại tượng Phật Thích Ca với đa dạng các mẫu mã, chất liệu cũng như chất lượng khác nhau. Do đó, để mua được tượng Phật Thích Ca với chất lượng tốt nhất đi kèm với đó là giá cả phải chăng, bạn có thể tham khảo các sản phẩm tại Vật phẩm Phật giáo.
Vật phẩm Phật giáo là đơn vị uy tín chuyên cung cấp các ấn phẩm Phật giáo với mức giá, chất lượng tốt nhất, trong đó có tượng Phật. Các sản phẩm tại đây đều được thực hiện bởi các nghệ nhân lâu năm, tay nghề cao, do đó đảm bảo được sự tinh tế, tính thẩm mỹ cũng như mang đến những bức tượng chân thực, sắc nét nhất, tạo sự hài lòng cho khách hàng.
Để tham khảo chi tiết hơn về các sản phẩm tượng Phật cũng như các sản phẩm nội thất, thờ cúng khác, khách hàng có thể liên hệ trực tiếp với Vật phẩm Phật giáo thông qua hotline 08.6767.1366 hoặc truy cập vào website vatphamphatgiao.com để lựa chọn sản phẩm phù hợp, ưng ý nhất.
P1:Lược sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ giáng sinh đến thành đạo: Kinh Pháp Hoa chép :" Vì một nhân duyên lớn, Phật mới xuất hiện ra đời ". Đó chính là " Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến ", để cho chúng sanh nhờ đó mà đổi mê ra ngộ, thấy tánh tỏ tâm, vượt sống khỏi chết, lìa khổ được vui. Bắt nguồn một tôn giáo nào, vị giáo chủ bao giờ cũng là một tấm gương sáng cho tín đồ soi chung để tiến bước. Nhưng trong các vị giáo chủ của các tôn giáo hiện có trên thế giới này, không có một vị nào đầy đủ ý nghĩa cao đẹp, một đời sống sâu xa bằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, cho đến mỗi im lặng của Ngài đều là những bài học quý báu cho chúng ta. Nếu chúng ta học giáo lý của Ngài mà không hiểu rõ đời sống của Ngài, thì sự học hỏi của chúng ta còn phiến diện, thiếu sót. Ðời Ngài chính là những biểu hiện giáo lý của Ngài. Ngài nói và Ngài thực hành ngay những lời Ngài đã nói. Ðời Ngài là một bằng chứng hiển nhiên để người đời nhận thấy rằng giáo lý của Ngài có thể thực hiện được, chứ không phải là những lời nói suông, những không tưởng, những lâu đài xây dựng trên mây, trên khói. Vậy cho nên khi chúng ta học hỏi đời Ngài, chúng ta không nên có cái quan niệm học cho biết để thỏa mãn tính hiếu kỳ, mà chúng ta cần phải tìm hiểu ý nghĩa thâm túy của đời sống ấy để đem áp dụng cho đời sống của chúng ta. Làm được như thế mới khỏi phụ ý nguyện lớn lao của đức Phật khi giáng sinh xuống cõi Ta Bà này và đã cam chịu bao nỗi đau khổ, gian lao trong kiếp sống như mỗi người chúng ta. 1.Bồ Tát Hộ Minh tại cung trời Đâu Suất được chư thiên thỉnh tái thế để cứu vớt chúng sanh ở cõi Ta Bà.
2.Hoàng Hậu Ma Da nằm mộng thấy voi trắng sáu ngà từ trên hư không xuống, lấy ngà khai hông hữu của bà mà chun vào.
3.Thái tử Đản sinh vào ngày trăng tròn tháng vesak trước Tây lịch 624 năm, tại vườn Lâm-tỳ-ni cách thành Ca-tỳ-la-vệ 15 cây số. Ngài đi 7 bước nở 7 đóa hoa sen, một tay chỉ trời một tay chỉ đất nói rằng:" Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn". Sau khi sinh ngài được bảy ngày thì hoàng hậu Ma Da qua đời. Thái tử được giao cho người dì là Ma Ha Ba Xà Bà Đề nuôi dưỡng.
4.Vua Tịnh Phạn mời các vị tiên tri đến xem tướng Thái tử trong lễ đặt tên.
5.Tiên A Tư Đà xem tướng cho Thái Tử, tiên đoán rằng: Thái tử vì có 32 tướng tốt xuất hiện, nên sẽ trở thành một vị Thánh. Nhưng vua Tịnh Phạn lại chỉ muốn con mình làm một vị vua để nối dõi tông đường mà thôi. Vì thế, Tịnh Phạn Vương muốn đổi số mệnh con mình, nên đặt tên cho Thái tử là Tất Ðạt Ða *(Siddartha) theo tiếng Phạn, nghĩa là: "Kẻ sẽ giữ chức vị mà mình phải giữ". Chức vị mà Tịnh Phạn Vương muốn ám chỉ đây tức là ngôi Vua. Ngài không ngờ rằng chính thật chức vị của Ngài là chức vị Phật.
6.Thái tử Tất Đạt Đa dự lễ hạ điền.Ngài thấy người nông dân cầm roi đánh con trâu đang nặng nhọc kéo cày phía trước. Lưỡi cày xới tung đất lên cuốn theo những con trùng, có con bị nắng thiêu đốt, có con bi lưỡi cày cắt thành nhiều đoạn đang quằn quại. Lại có những con chim nhỏ bay xuống gấp lấy những con trùng đó, rồi lại có những con chim lớn đuổi bắt những con chim nhỏ. Ngài cảm thấy buồn phiền với những điều mình vừa trông thấy, nên đã ra một gốc cây to để thiền định.
7.Thái tử mỗi năm mỗi lớn, thì diện mạo càng thêm khôi ngôi, tài năng càng phát lộ gấp bội. Ngài có một sức khỏe hơn người, một trí thông minh xuất chúng.
8.Sau khi giành chiến thắng trong cuộc thi tuyển chọn phò mã. Ngài đã kết hôn với công chúa Da Du Đà La lúc ngài được 16 tuổi.
9.Thái tử được vua cha yêu quý, sống trong cuộc sống sung túc đầy đủ cung vang điện ngọc, đàn ca múa hát, vợ đẹp con ngoan. Nhưng vẫn cảm thấy lòng nặng trĩu trong nỗi băn khoăn thắc mắc.
10.Một ngày khi đi dạo bốn cửa thành, ngài đã nhìn thấy 4 hình ảnh đó là : một người già yếu, một người bệnh tật, một xác chết và một vị tu sĩ. Ngài nhận ra một điều là con người ta được sinh ra rồi già đi, rồi sẽ bị bệnh tật và cuối cùng sẽ chết cho dù người đó có là ai đi chăng nữa. Ngài trân quý hình ảnh siêu thoát của vị tu sĩ.
11.Ngài nhìn thấy các cung nữ say sưa, thân thể lõa lồ, nằm ngổn ngang trong phòng sau cuộc tiệc linh đình khiến ngài cảm thấy sự ô uế của con người.
12.Một đêm khuya thừa dịp quân lính canh gác và cung phi mỹ nữ say ngủ sau một tiệc linh đình, Thái Tử lén trổi dậy nhìn vợ con lần cuối để chuẩn bị rời đi khỏi thành Ca-tỳ-la-vệ.
13.Ngài gọi người giữ ngựa Xa Nặc dậy,cưỡi ngựa Kiền Trắc, rồi hai thầy trò trốn ra khỏi thành. Lúc bấy giờ nhằm đêm mồng tám tháng hai, và Ngài được 19 tuổi.
14.Khi đến bờ sông Anoma, ngài đã cắt tóc, trao lại ngựa, tháo bỏ tất cả trang sức quần áo đưa cho Xa Nặc và kêu Xa Mặc trở về.
15.Sau khi đã thọ giáo hết với 2 vị thấy đầu tiên là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta ngài đã đến một khu rừng để tu ép xác khổ hạnh cùng với 5 anh em Kiều Trần Như. Sau 6 năm tu ép xác, thân thể ngài càng suy nhược, yếu ớt tưởng chừng sắp chết. Đến khi ngài nghe được tiếng đàn của đấng Phạm Thiên Indra, ngài liên tưởng đến loại dây đàn không quá căng cũng không quá chùng nên ngài đã phát hiện ra con đường trung dung – Trung Đạo. Ngài đã ăn uống bình thường trở lại. Điều này khiến cho 5 anh em Kiều Trần Như thất vọng và đã bỏ ngải để ra đi tìm nơi khác tiếp tục ép xác tu hành.
16.Ngài thọ nhận bát cháo sữa của nàng Su Dà Ta.
17.Sau khi thọ thực xong, Ngài đã đặt chiếc bát xuống dòng sông Ni Liên và thệ nguyện sẽ đạt được giác ngộ rốt ráo. Chiếc bát đã trôi ngược theo dòng nước. Sau đó ngài đã băng qua dòng nước và được anh nông dân cúng dường bó cỏ Kusa (một loại cỏ thơm), Ngài bèn dùng bó cỏ làm gối lót tọa thiền, rồi đến ngồi dưới gốc cây Bồ Đề mà phát nguyện:" Nếu ta không thành đạo thì dù thịt nát xương tan, ta cũng quyết k đứng dậy khỏi chỗ này".
18.Khi Ngài đang ngồi thiền thì bất chợt có một cơn mưa trái mùa rất lớn. Thần rắn Naga liền bò ra khỏi hang, quấn mình quanh chổ ngồi của ngài 7 vòng để nâng ngài lên và dùng đầu của mình để che mưa cho Ngài.
19.Ngài đã ngồi quán tưởng các duyên khởi, nhìn thấy được các kiếp trước của mình, của chúng sanh, sự hình thành và hủy diệt của thế giới, của nhiều thế giới.
20.Ðức Thích Ca đã ngồi nhập định 49 ngày đêm dưới gốc Bồ Ðề. Trong 49 ngày ấy Ngài đã chiến đấu với bọn giặc phiền não ở nội tâm như tham, sân, si, nghi, mạn...và chiến đấu với giặc Thiên Ma do Ma Vương Ba Tuần chỉ huy.
21.Trong đêm thứ 49, vào canh hai, Ngài chứng được quả "Túc Mệnh Minh", (thấy rõ được tất cả quá khứ của mình trong tam giới). Ðến nữa đêm, Ngài chứng được quả "Thiên Nhãn Minh" (thấy được tất cả bản thể của vũ trụ vànguyên nhân cấu tạo của nó). Ðến canh tư, Ngài chứng được "Lậu Tận Minh" (rõ biết nguồn gốc của đau khổ và phương pháp dứt trừ đau khổ để được giải thoát khỏi sanh tử luân hồi). Từ ngày ấy, Ngài được Ðạo vô thượng, thành bậc "Chính Ðẳng Chính Giác", hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngày thành đạo của Ngài tính theo Âm lịch là ngày mồng 8 tháng 12, vào lúc sao mai mọc. Lúc ấy Ngài được 30 tuổi.
Nguồn: Tham khảo Phật học Phổ thông của HT. Thích Thiện Hoa và nguoiphattu.com.